Xin giới
thiệu một bài bình văn rất thú vị. Tiểu phẩm "Thập loại giáo sư, tiến sĩ”
được một tác giả khuyết danh viết phỏng theo văn tế Thập loại chúng sinh của
Nguyễn Du. Tiểu phẩm là một áng văn phê phán nghiêm khắc nạn giáo sư bất tài và
tiến sĩ dỏm ở VN. Trong bài bình dưới đây, tác giả giải thích từng đoạn trong
tiểu phẩm đó. Rất thích!
Năm
2010, trên hàng chục (có thể hàng trăm) trang mạng xuất hiện tác phẩm khuyết
danh Văn Tế Thập Loại Giáo Sư (gọi tắt là Văn Tế). Về hình thức, đây không phải
loại văn tế đặc trưng mà là thơ song-thất-lục-bát, bắt chước Văn Tế Thập Loại
Chúng Sinh của Cụ Tiên Điền. Tôi đọc và thực sự kính phục tác giả của nó. Trong
vỏn vẹn 392 chữ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh hiện thực sinh động về cuộc
đua chen mua bằng bán tước, với tài dùng từ ngữ không chê vào đâu được, từng từ
được chọn lựa đắt đến mức không thể nào thay thế nổi. Tôi nghĩ tác phẩm này xứng
đáng được đưa vào sách giáo khoa Văn của các thế hệ sau.
Bốn
năm đã qua, và tôi thấy không nên để mọi người quên đi tác phẩm giá trị này. Tôi
quyết định phải viết về nó. Nhưng vì không phải nhà nghiên cứu văn học, nên tôi
chỉ dám đặt ra nhiệm vụ là dùng văn xuôi để nói thêm cho rõ hơn, kỹ hơn về các
loại người, “thập loại giáo sư, tiến sỹ” được nêu trong Văn Tế. Đúng ra thì lối
văn được dùng trong đó đã rất sáng sủa, nhưng do rất cô đọng nên độc giả phổ
thông có thể không hiểu hết khi đọc qua một lượt. Và tôi hình dung đối tượng
bài viết của tôi chính là tầng lớp độc giả đó. Với các vị có trình độ về Văn Học
mà tình cờ xem qua bài này, tôi xin được thông cảm, và nếu được chỉ giáo thì
tôi thực sự biết ơn.
Văn Tế
có 14 khổ. Ba khổ đầu chỉ xin dẫn ra để bạn đọc tiện theo dõi.
1
Tiết quý Thu gió mưa vuồn vuột
Dân quê miềng lạnh
buốt xương da
Lập đàn đèn nến
hương hoa
Lạy ông tiến sĩ, lạy
bà giáo sư.
2
Bể học vấn hư hư thực thực
Lối quan trường bắc
bực gai chông
Vênh vênh một lũ Hội
đồng
Phiếu bầu thì có, đầu
không có gì.
3
Không có gì mà gì cũng có
Sự học hàm ngấp ngó
đua tranh
Đua tranh thì có giá
thành
Mua danh ba vạn, bán
danh ba hào.
Từ khổ
4 đến khổ 13, tác giả đặc tả “thập loại” người đua chen trong “bể học vấn” và
“lối quan trường”.
4
Nào những kẻ mũ cao áo rộng
Chốn tam đình ngong
ngóng vào ra
Thanh binh chính thị
nghiệp nhà
Ô hô mồm giải mép
loa cũng tài.
Đây
nói về loại người “mũ cao áo rộng”, tức ăn mặc sang trọng, thường xuyên “ngong
ngóng”, đi ra đi vào “chốn tam đình”, tức chốn công đường với nhà cao cửa rộng,
những tòa nhà mà người dân thường chỉ nhìn thôi cũng đã thấy nghẹt thở, và nếu
phải bước vào trong thì thấy kinh hoàng hơn nhiều so với anh Pha của Nguyễn
Công Hoan khi vào huyện đường gặp Quan Phụ Mẫu. Nghề của họ là “thanh binh”,
nghĩa hẹp là kiểm tra, giám sát binh lính, rộng hơn là có quyền điều khiển những
đám đông dân chúng trong xã hội và các quan cấp dưới. Loại này được quyền nói
gì thì nói, nói oang oang, với ngôn từ như “rồng leo”. Tuy “mồm giải mép loa”
thì khó nói được những điều sâu sắc, nhưng vì có quyền thế nên lời họ nói được
coi là “nhả ngọc phun châu” (kiểu như “phân hóa nội bộ nước Mỹ” hay “ném chuột
nhưng phải giữ bình”,…).
Loại
người này thực ra rất ghét tri thức và trí thức. Ghét tri thức vì nó làm lộ ra
sự đểu cáng và dốt nát. Ghét trí thức vì biết người hiểu biết thật sự không trọng
gì họ. Và để khỏi bị khinh, cũng là tạo điều kiện để tiến thân xa hơn, họ phải
tìm cách khoác lên mình cái áo TS, PGS hay GS. Nhưng họ vẫn chỉ là họ. Nhà
nghiên cứu Vương Trí Nhàn nói:
“Mặc
dù nhiều khi mượn áo trí thức để làm dáng, nhưng trong thực tế, bản chất của
lưu manh là thâm thù, căm ghét trí thức chân chính. Và họ căm thù trí tuệ nói
chung… Ở tầng lớp lưu manh khoác áo trí thức, cái lõi là vô học; bao nhiêu cái
có học bên ngoài chỉ là đắp điếm thêm.”
5
Nào những kẻ miệt mài đèn sách
Đạo văn người chắp
nhặt nên câu
Sách người làm mọt
làm sâu
Ô hô nhai lại kiếp
trâu kiếp bò.
Trong
thập loại người đua chen trong bể học vấn, đây là loại tử tế hơn cả. Họ “miệt
mài đèn sách”. Nhưng ngay cả họ cũng chẳng phát hiện hay sáng tạo ra cái gì mới
cho xã hội, bởi cũng chỉ nhặt nhạnh, “copy” ở sách này một tí, báo kia một ít,
rồi “paste” chúng lại với nhau thành “công trình” này, “luận án” nọ. Hoạt động
chính của họ là “đạo văn”, là “làm mọt làm sâu” ở sách người, là “nhai lại” những
điều người khác đã nói (và tự cho thê là thâm thúy, tài giỏi lắm!). Một dạng ăn
cắp vặt.
6
Nào những kẻ tò vò nuôi nhện
Bụng nhện tròn nó quện
luôn ông
Ô hô mông quạnh đồng
không
Có hương có khói
nhưng không bàn thờ.
Nếu
trong thập loại, loại “mũ cao áo rộng” được lợi nhiều nhất từ những cuộc đua
tranh thì loại “tò vò nuôi nhện” là loại thảm thương nhất. Thất bại toàn diện.
(Mặc dù thành ngữ “tò vò nuôi nhện” phản ảnh sai thực tế là chính tò vò ăn nhện,
nhưng ở đây ta hãy cứ hiểu theo nghĩa truyền thống rằng “tò vò nuôi nhện” nói về
những kẻ cố công nuôi kẻ khác một cách uổng phí.) “Tò vò nuôi nhện” ở đây là những
kẻ dốc hết vốn liếng ra để nuôi những ông “thầy” và vài kẻ nào đó trong “một lũ
hội đồng” mà “phiếu bầu thì có” nhưng “đầu không có gì”, nhưng rủi thay, những
nhân vật đó “tử” đột ngột (theo nghĩa đen hoặc nghĩa bóng), không thể đem kẻ
nuôi mình “về đích”. Kẻ đua tranh không thể thành TS, PGS, GS được, đành cũng
“chết” theo kẻ mình nuôi, bị “quện” theo ra chốn “mông quạnh đồng không”. “Chết”
mà không thành danh, nên không được lập “bàn thờ”, chỉ được người đời thương hại
đốt cho vài nén nhang cho “có hương có khói”.
7
Nào những kẻ lập lờ đục nước
Hội Tâm linh mưu chước
sắp bày
Dị nhân đuổi gió hô
mây
Quái nhân múa mép,
múa tay, múa tiền.
Không
chỉ có người đời bình thường bước vào chốn đua tranh vì học hàm, học vị. Những
kẻ thuộc “hội tâm linh”, tưởng chừng hướng toàn bộ tâm trí về cõi huyền, không
màng danh lợi, lại cũng lao vào cuộc mua danh. Chúng tự tô vẽ bản thân như những
“dị nhân” (trước ngày kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, có kẻ còn cam đoan có thể
“đuổi gió hô mây” để tạo thuận lợi cho việc tổ chức “đại lễ”), hoặc cố “múa
mép, múa tay”, thể hiện mình theo cách nào đó để thiên hạ thấy ở chúng những
“quái nhân” có đầy phép lạ, nhằm mục đích được “múa tiền” và… đút túi.
8
Nào những kẻ điên điên dại dại
Nay quốc ca mai lại
quốc hoa
Ô hô vỏ lựu mào gà
Nước nôi man mác biết
là còn không.
Những
kẻ “điên điên dại dại” này thực ra chỉ “điên điên dại dại” ở lối sống. Thực ra,
chúng họ hàng rất gần với những kẻ “mũ cao áo rộng” hoặc chính là bọn này. Vì
chỉ có chúng mới có quyền “phát động” thi sáng tác “quốc ca (mới)” hay thi đề cử
“quốc hoa”. Trong việc tranh đoạt quyền lợi, chúng rất “tỉnh”, rất “cao mưu”.
Chỉ có điều, những trò chúng làm đều là trò “vỏ lựu mào gà”, giống như việc làm
của bọn làng chơi, lấy nước vỏ lựu, máu mào gà (và thời giờ là các loại hóa chất)
để “mượn màu chiêu tập”, “làm hồng vùng kín” để lừa khách chơi, làm như gái còn
trinh. Dối trá, lòe bịp dân đen để trục lợi là nghề của chúng. Tác giả Văn Tế,
với thái độ khinh bỉ, đã mô tả chúng, những kẻ quyền thế đó, như anh chị em
sinh đôi của bọn chuyên dùng mẹo “mượn màu chiêu tập” trong kinh doanh xác thịt.
Và thực sự đó là sự tương đồng. Với bọn người quyền thế này thì “đất nước” cũng
thành “nước nôi”, và chúng sẵn sàng bán rẻ lúc nào không biết.
9
Nào những kẻ lưu vong thất thổ
Cõi Tây phương mặt rỗ
kỳ khu
Học đòi lí lẽ ba xu
Chõ về đàn gảy tai
tru mà rầu.
Đây
là nói những kẻ đi du học bên “Tây” (chắc không có ý nói Việt Kiều, vì cụm từ
“mặt rỗ kỳ khu” rõ ràng nói về những kẻ “học bạc mặt” mới theo được dân bản xứ).
Trong số đó, có những kẻ học được ít nhiều “lý lẽ” bên Tây, nhìn về quê nhà thấy
có nhiều điều oái oăm, bèn ngứa miệng, lên tiếng “phản biện” hoặc “dạy bảo”.
Nhưng đã là kẻ đua tranh trong “bể học vấn hư hư thực thực” thì thực ra cũng chẳng
giỏi giang chi, nên cái “lý lẽ” kia cũng chỉ đáng “ba xu”, lại nói cho bọn “tai
tru” nghe nên càng chẳng đâu vào đâu, người ngoài cuộc chứng kiến “mà rầu”.
10
Nào những kẻ Đông Âu tu luyện
Trợ cấp còm tằn tiện
từng khâu
Gái xinh chẳng dám
nhìn lâu
Áo phông son Thái khấu
đầu bán buôn.
Đoạn
này nói về những kẻ cũng “đi Tây”, nhưng là “Tây Đông Âu”, tức là các nước “xã
hội chủ nghĩa anh em” cũ. Cánh này đi theo “đề án 322” của chính phủ, học bổng ở
dạng “trợ cấp còm”, phải ra sức tằn tiện mới đủ sống. Thấy “gái xinh” thì ngoảnh
đi nơi khác, hoặc có nhìn cũng “chẳng dám nhìn lâu”. Nhìn lâu nhỡ thèm thì tiền
đâu bao! Và để xông xênh chút thì trước khi đi đành mang theo ít “áo phông son
Thái” sang bán. Mà bán thì sợ nhỡ người quen bắt gặp nên đành “khấu đầu”, giấu
mặt. Cố ki cóp kiếm ít, khi về còn có vốn để “mua danh”.
11
Nào những kẻ cúi luồn thân phận
Tay bút gươm lòng lận
bút lông
Ô hô trời đất thấu
không
Đô Long hạ bệ, đốc
Đông thượng tòa.
Đây
có lẽ là đoạn có dung lượng ngữ nghĩa lớn nhất. Thú thực, lúc đầu tôi không hiểu
câu “Đô Long hạ bệ, đốc Đông thượng tòa” nghĩa là thế nào. Hỏi thì mới rõ, “đô
Long” và “đốc Đông” là nói về hai vị đô đốc Nguyễn Tăng Long và Đặng Tiến Đông
của quân Tây Sơn. Sử xưa nói Nguyễn Tăng Long chỉ huy đánh trận Đống Đa, và
nghe nói vào cái giai đoạn trong ban lãnh đạo cấp rất cao có một vị họ Đặng thì
các “xử da” của ta “quyết định” rằng người chỉ huy đánh trận này là Đặng Tiến
Đông. Nếu quả có thế thì đây là một sự tráo trở, đánh lừa cả dân tộc! Những “xử
da” kia đã chọn lối sống “cúi luồn thân phận”, vung bút ra vẻ như “bút gươm”,
nhưng kỳ thực mềm oặt như “bút lông”, sẵn sàng tạo ra những pho sử điêu toa.
Tuy
nhiên, tôi nghĩ rằng tác giả Văn Tế không cố tình khẳng định rằng đã có sự tráo
trở đổi trắng thay đen như vừa nói. Câu “Đô Long hạ bệ, đốc Đông thượng tòa” ở
đây không mang nội dung của một khẳng định mang tính khoa học lịch sử. Đây chỉ
là một thủ pháp văn chương để nói về sự tráo trở nói chung trong việc chép sử.
Tác giả chỉ muốn nói có loại người sẵn sàng làm những việc như cho “Đô Long hạ
bệ, đốc Đông thượng tòa”.
12
Nào những kẻ ghen gà tiếng gáy
Hám vinh danh tháu
xoáy công trình
Chưa thôi tranh luận
rập rình
Đã lôi nhau đến pháp
đình… tội chưa.
Nghĩa
của đoạn này khá rõ. Nó nói về những kẻ máu me hơn người, theo “triết lý” “con
gà tức nhau tiếng gáy”, và để đạt mục đích thì sẵn sàng “tháu xoáy công trình”.
Kèm theo đó là những kẻ khi cảm thấy hình như kẻ khác “tháu xoáy” thì chưa kịp
làm rõ trắng đen đã “lôi nhau đến pháp đình”, quyết triệt hạ đối phương để rộng
đường cho chính mình trong việc tiến thân.
13
Cũng có kẻ thân lừa ưa nặng
Cũng có cha lẵng nhẵng
oán ân
Cuốc Liên điện thoại
Ma Lân
Đánh rơi thằng nọ,
xí phần đứa kia…
Cuối
cùng là những kẻ ngay trong cái “lũ hội đồng”. Họ là những kẻ không còn phải
đua tranh để kiếm danh hiệu TS, PGS, GS nữa. Họ đã là những GS. Tuy, như nói ở
đầu Văn Tế, họ chỉ có “phiếu bầu” mà “đầu không có gì” hoặc có ở mức chưa đủ xứng
đáng, nhưng họ được quyền ban ân huệ cho kẻ khác. Vì những thành viên khác của
hội đồng cũng có đệ tử (hay người nuôi) cần được ban ơn, nên cuộc đua tranh
càng khốc liệt. “Lũ hội đồng” phải mua bán trong nội bộ hội đồng, hoặc trao đổi
theo kiểu “xí phần”: Thằng này “đệ” của tớ đấy nhé, ông bỏ cho nó thì tớ bỏ cho
“đệ” của ông. Nếu nhận lời nhiều, bao không hết, hoặc nhận trường hợp “không được
giá” thì đành “đánh rơi”: “Khó quá cậu ạ. Mình đã đưa cho mấy tay kia hết cái số
cậu đưa cho mình nhưng có lẽ bọn nó vẫn thấy chưa đủ.” hoặc ““Xi vi” (CV,
curriculum vitae, chữ Latin, vẫn hay dịch là “lý lịch khoa học”) của cậu chưa ấn
tượng lắm, mình không bảo vệ cho cậu được”. Nhiều trường hợp việc bầu bán trở
thành việc “oán ân”, và có “cha” máu me đến mức phải “lẵng nhẵng”, cố tìm cách
đưa đệ tử “vào cầu”. Các GS trong hội đồng gặp nhau trực tiếp không tiện thì
“điện thoại”. Một “Cuốc Liên” nào đó gọi tới một “Ma Lân”: “Nhớ bỏ cho thằng nọ
(hay đứa kia) nhé…”
Ở đây
cũng phải nói thêm về hai cái tên “Cuốc Liên” và “Ma Lân”. Rất giỏi. Đây chỉ là
những ví dụ vu vơ, rất chung chung, nhưng lại gợi ra được những cái tên cụ thể
của những vị từng ở trong hội đồng học hàm (ngành Văn). “Cuốc Liên” tất nhiên
là viết chệch từ “Quốc Liên”, có thể là Mã Quốc Liên hay Ma Quốc Liên,… còn “Ma
Lân” thì là “Mai Gì Lân” hay “Mã Gì Lân” chẳng hạn. Nhưng mà ai có tật thì giật
mình thôi. Đố anh nào dám lồng lên, la lên rằng “Thằng viết bài này nó nói xấu
tôi!” đấy. Chung chung mà cụ thể, cụ thể mà vẫn chung chung. Thế mới tài!
Và khổ
kết là:
14
Phận bèo bọt thia lia mặt nước
Giang sơn này độc dược
tràn lan
Bán buôn sông biển
non ngàn
Hồn hề hồn hỡi hồn
tan hay còn…
Như
đã nói từ đầu, ngôn từ của bài Văn Tế này không chê vào đâu được. Tuy nhiên,
xin nói thêm rằng kể ra hai câu đầu tác giả cứ lấy nguyên văn hai câu của Cụ
Tiên Điền
Tiết tháng Bảy mưa dầm
sùi sụt
Tỏa hơi may lạnh buốt
xương da
thì
có lẽ hay hơn. Ngoài ra, tôi thấy hình như đoạn kết hơi lạc đề: Lẽ ra “hồn” ở
đây phải là “hồn” được tế, tức là các GS, TS; nhưng đây lại có ý nói về những
“phận bèo bọt”, phải chăng là nói đám dân đen?
18.10.2014
NGUYỄN
TRẦN SÂM
No comments:
Post a Comment